Trẻ tự kỷ: Nguyên nhân, Biểu hiện, Phương pháp can thiệp
Trẻ tự kỷ thường có khiếm khuyết về ngôn ngữ, hành vi định hình và thiếu tương tác xã hội. Đa phần các trường hợp mắc bệnh đều khởi phát triệu chứng trước năm 3 tuổi. Tự kỷ được đề cập từ rất sớm nhưng cho đến thời điểm hiện tại cơ chế bệnh sinh và điều trị vẫn còn là thách thức lớn đối với y học.
Tự kỷ là gì?
Tự kỷ hay rối loạn phổ tự kỷ (Autism Spectrum Disorder – ASD) là một dạng rối loạn phát triển lan tỏa với mức độ đa dạng. Dù mức độ triệu chứng có khác nhau nhưng nhìn chung người mắc chứng bệnh này phải đối mặt với khiếm khuyết ở 3 khía cạnh là giao tiếp (ngôn ngữ), tương tác xã hội và hành vi (thói quen). Đặc điểm của tự kỷ là khởi phát sớm trước 36 tháng tuổi và diễn biến suốt đời.
Trước đây, tự kỷ ít được quan tâm do tỷ lệ mắc bệnh tương đối hiếm. Tuy nhiên, số lượng người mắc chứng bệnh này đang không ngừng tăng lên. Hiện tại, có khoảng 1% dân số đang đối mặt với bệnh tự kỷ và nguy cơ cao hơn ở trẻ trai (gấp 4 – 6 lần so với trẻ gái).
Tự kỷ hình thành do rối loạn trong quá trình phát triển thần kinh nên những ảnh hưởng của bệnh sẽ kéo dài suốt đời. Do đó, trẻ mắc chứng bệnh này cần phải được thăm khám và can thiệp kịp thời.
Mặc dù điều trị dứt điểm là không thể nhưng các phương pháp giáo dục đặc biệt, liệu pháp tâm lý, hành vi,… sẽ giúp ích rất nhiều trong việc cải thiện chức năng và nâng cao chất lượng cuộc sống của trẻ.
Đa phần các trường hợp bị tự kỷ đều là tự kỷ bẩm sinh (khởi phát trước năm 3 tuổi). Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp khởi phát sau 3 tuổi hay còn được gọi là tự kỷ không điển hình. Cho đến nay, những hiểu biết của khoa học về chứng bệnh này vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy, quá trình điều trị và phòng ngừa tự kỷ vẫn đang là thách thức lớn đối với y học.
Nguyên nhân gây tự kỷ ở trẻ em
Cho đến nay, nguyên nhân gây tự kỷ vẫn chưa được biết rõ. Mặc dù được phát hiện từ sớm (năm 1911) và được nghiên cứu nhiều nhưng bệnh sinh vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Hiện tại, các chuyên gia ủng hộ giả thuyết tự kỷ là hội chứng do di truyền và có thể liên quan đến một số yếu tố môi trường.
Các nguyên nhân, yếu tố được xác định có thể gây ra bệnh tự kỷ ở trẻ em:
- Di truyền: Di truyền là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bệnh tự kỷ và các rối loạn phát triển thần kinh khác. Các chuyên gia tin rằng, tổn thương gen là nguyên nhân dẫn đến chứng bệnh này. Một số nghiên cứu sơ bộ tìm thấy bằng chứng về việc gen “tự kỷ” nằm trên nhiễm sắc thể X.
- Tổn thương não: Tổn thương não trong thời kỳ mang thai và chu sinh được xem là yếu tố thuận lợi gây ra bệnh tự kỷ. Thực tế, giả thuyết này đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu. Các chuyên gia nhận thấy đa số trẻ tự kỷ đều bị Rubella bẩm sinh, bệnh xơ cứng củ,… Khi nghiên cứu hình ảnh não bộ cũng phát hiện những bất thường như cấu trúc thùy trán, thùy thái dương, tiểu não và vỏ não có sự khác biệt rõ rệt so với trẻ khỏe mạnh.
- Các yếu tố khác: Các chuyên gia tin rằng, tự kỷ ở trẻ em có liên quan đến một số yếu tố khác như nhiễm độc thủy ngân khi mang thai, mẹ bị nhiễm Rubella và các virus trong thai kỳ, trẻ sinh non, bị ngạt sau khi sinh, bị suy hô hấp nặng,…
Mặc dù còn nhiều điểm chưa thể giải thích nhưng qua các công trình nghiên cứu được thực hiện, có thể khẳng định tự kỷ ở trẻ em có mối liên hệ mật thiết với di truyền và các vấn đề sức khỏe trong thai kỳ lẫn thời kỳ chu sinh.
Biểu hiện của bệnh tự kỷ ở trẻ em
Đa số các trường hợp bị tự kỷ đều khởi phát triệu chứng trước năm 3 tuổi (được gọi là tự kỷ điển hình hoặc tự kỷ bẩm sinh). Một số ít trường hợp khởi phát muộn sau 3 tuổi được gọi là tự kỷ không điển hình. Ở dạng này, trẻ phát triển bình thường cho đến 30 tháng tuổi sau đó ngừng phát triển và thoái hóa các kỹ năng đã học được. Ngay sau đó, các triệu chứng của tự kỷ sẽ xuất hiện với đặc điểm vô cùng rõ rệt.
Tự kỷ được gọi là rối loạn phổ bởi triệu chứng của bệnh vô cùng đa dạng về mức độ, biểu hiện lâm sàng và thời điểm khởi phát. Tuy nhiên nhìn chung, trẻ mắc chứng bệnh này đều sẽ có khiếm khuyết về ngôn ngữ, hành vi bất thường, rập khuôn và thiếu tương tác xã hội.
1. Bất thường về ngôn ngữ và giao tiếp
Trẻ khỏe mạnh bắt đầu hiểu và sử dụng ngôn ngữ từ rất sớm (bao gồm ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ hình thể). Một số trẻ có thể chậm nói hơn nhưng vẫn có phản ứng trước lời nói của bố mẹ. Trong khi đó, trẻ tự kỷ gần như không có khả năng ngôn ngữ hoặc ngôn ngữ phát triển rất chậm.
Có thể nói, bất thường về ngôn ngữ chính là triệu chứng sớm nhất và đồng thời cũng là biểu hiện điển hình nhất của bệnh tự kỷ. Như đã đề cập, mức độ khiếm khuyết ngôn ngữ sẽ có sự khác biệt ở từng trẻ.
Những biểu hiện về ngôn ngữ, giao tiếp ở trẻ tự kỷ:
- Trẻ chậm nói hơn rất nhiều so với trẻ đồng trang lứa (không bập bẹ nói khi đủ 12 tháng tuổi, không biết dùng ngôn ngữ cơ thể, chưa thể nói được câu 2 từ khi đủ 24 tháng tuổi và không nói được từ đơn khi đủ 16 tháng tuổi)
- Một số trẻ gần như bị câm và đa phần các trường hợp còn lại có thể phát âm nhưng đều là những từ vô nghĩa hoặc trẻ không hiểu được nghĩa của từ
- Trẻ thường lặp lại từ hoặc các câu đơn giản nhưng đa phần đều không hiểu được nghĩa của câu. Trẻ tự kỷ thường nhại lời khi nghe thấy âm thanh ở trên ti vi và các thiết bị điện tử, rất ít khi bắt chước lời của những người xung quanh.
- Trẻ không biết sử dụng ngôn ngữ cho mục đích giao tiếp và rất khó để diễn tả mong muốn, nhu cầu của bản thân bằng lời nói.
- Thụ động trong giao tiếp, thường chỉ trả lời, không bao giờ chủ động trò chuyện hay mở đầu cuộc hội thoại. Thậm chí, trẻ có thể không trả lời ngay cả khi mọi người lặp đi lặp lại câu hỏi rất nhiều lần.
- Trẻ tự kỷ thường phát âm không rõ ràng, nói nhanh, ríu lời, giọng nói đều đều và đôi khi cao giọng không phù hợp với ngữ cảnh.
- Khi lớn hơn, trẻ có thể hiểu được khá nhiều từ (chủ yếu là nghĩa đen) những thường sai ngữ pháp. Câu nói thường có nội dung đơn giản, rời rạc, không hiểu được những từ phức tạp và không biết cách thể hiện cảm xúc thông qua lời nói.
Ở những trường hợp nặng, trẻ tự kỷ có thể mất kỹ năng ngôn ngữ vào bất cứ lúc nào.
2. Thiếu tương tác xã hội
Trẻ tự kỷ thường sống trong thế giới riêng, trẻ không có nhu cầu tương tác và cũng không biết cách tương tác với những người xung quanh. Việc tách biệt bản thân với gia đình, xã hội khiến trẻ không thể phát triển một cách lành mạnh. Giải pháp duy nhất là phát hiện sớm để có hướng can thiệp kịp thời và phù hợp.
Thiếu tương tác xã hội ở trẻ tự kỷ sẽ thể hiện qua những dấu hiệu sau đây:
- Ngay từ khi còn nhỏ, trẻ đã rất ít bám ba mẹ, trẻ tỏ ra ngoan ngoãn, ít quấy khóc.
- Không thể hiện nhu cầu được yêu thương, chăm sóc (không rướn người để yêu cầu ba mẹ bế bồng, không mè nheo hay quấy khóc để đòi hỏi mọi người phải đáp ứng yêu cầu của bản thân,…)
- Trẻ gần như không có phản ứng sợ hãi với người lạ, đồng thời không có sự khác biệt trong phản ứng với người lạ và người thân.
- Trẻ tự kỷ rất ít khi cười với mọi người nhưng đôi khi cười ngờ nghệch một mình hoặc cười với đồ vật.
- Ngay từ những năm đầu đời, trẻ đã rất ít tương tác với mọi người. Trẻ dành nhiều thời gian để chơi cùng các món đồ mà trẻ thích và không quan tâm đến bất cứ ai. Nếu có ai đó xâm phạm vào “thế giới riêng”, trẻ có thể bày tỏ sự khó chịu và đôi khi có biểu hiện kích động.
- Trẻ không phân biệt được mặt của người thân trong gia đình và người lạ.
- Né tránh giao tiếp bằng mắt, không biết dùng ánh mắt để thể hiện cảm xúc và cũng không hiểu được ẩn ý trong ánh mắt của người khác.
Thiếu tương tác xã hội sẽ trở nên rõ ràng hơn khi trẻ đến trường. Trẻ gần như cô lập và không có nhu cầu kết bạn, gặp gỡ với bất cứ ai. Đây là giai đoạn nhiều gia đình phát hiện những bất thường của con trẻ.
3. Hành vi bất thường, định hình
Hành vi bất thường là một trong những triệu chứng điển hình của bệnh tự kỷ ở trẻ em. Trẻ thường có các hành vi kỳ lạ, lặp đi lặp lại, thói quen và sở thích có tính rập khuôn. Một số trẻ tự kỷ có biểu hiện tăng động nhưng cũng có trường hợp giảm vận động (ít gặp).
Các hành vi, thói quen bất thường hay gặp ở trẻ tự kỷ:
- Có các hành vi định hình, rập khuôn như ngắm nhìn ngón tay trong thời gian dài, nhìn nghiêng, nhảy lên nhảy xuống, xoay tròn người, đi kiễng gót, lắc lư người, ngửi thức ăn, chơi với bàn tay, bàn chân,…
- Trẻ duy trì các hành vi, thói quen ngày qua ngày thay vì tìm tòi những cái mới theo đúng sự phát triển của lứa tuổi.
- Trẻ bị thu hút bởi những thứ xoay tròn, chuyển động đều như chong chóng, bánh xe, đồng hồ,…
- Trẻ duy trì thói quen một cách cứng nhắc, rập khuôn không phù hợp với lứa tuổi. Chẳng hạn như nằm, ngồi đúng một vị trí, chỉ đi bằng một đường duy nhất, xếp các đồ vật thành hàng theo đúng thứ tự,…
- Một số trẻ có các hành vi cưỡng bức như phải đặt đồ vật đúng vị trí, sắp xếp mọi thứ như cũ, không muốn bất cứ ai thay đổi vị trí đồ vật,… Trẻ có thể tỏ ra khó chịu, thậm chí tức giận và kích động nếu đồ vật bị di dời.
- Khó thích ứng và nhạy cảm quá mức với những thay đổi (không muốn đổi không gian phòng ngủ, không muốn đổi kiểu tóc hay quần áo mới). Trẻ có thể bộc lộ sự khó chịu bằng cách chạy nhảy, la hét, thậm chí đập đầu vào tường, ném đồ vật và cắn/ đánh người.
- Trẻ tự kỷ vẫn có niềm yêu thích với một số đồ vật hoặc thú vui nhưng thường rất hạn chế. Một số thú vui thường thấy là xem ti vi, thích chơi các món đồ chơi có nhiều chi tiết, dành nhiều thời gian xem sách, truyện,…
- Đa phần trẻ bị tự kỷ đều có biểu hiện tăng động (chạy nhảy nhiều giờ liền nhưng không có cảm giác mệt, trẻ có thể thức giấc giữa đêm và chơi đến sáng nhưng không tỏ ra ủ rũ hay mệt mỏi,…)
- Một số trẻ có biểu hiện giảm vận động nhưng tương đối hiếm gặp.
- Trẻ có thể sợ hãi, lo lắng quá mức trước những thay đổi từ môi trường. Điều này khiến nhiều trẻ từ chối đến trường và đến những nơi công cộng.
Nhìn chung, trẻ tự kỷ có hành vi rập khuôn, lặp đi lặp lại, các hành vi thường vô bổ và nhàm chán. Trẻ không khám phá cái mới như bạn bè đồng trang lứa. Thậm chí rất nhạy cảm với những thay đổi xung quanh, đặc biệt là vị trí đồ đạc.
4. Rối loạn cảm giác và khí sắc không ổn định
Ngoài 3 khía cạnh trên, trẻ tự kỷ còn bị rối loạn cảm giác và khí sắc không ổn định. Những triệu chứng này đôi khi bị nhầm lẫn với khủng hoảng tuổi lên 3. Tuy nhiên, các biểu hiện sẽ kéo dài dai dẳng buộc gia đình phải đưa trẻ đến khám và điều trị.
Rối loạn cảm giác và khí sắc không ổn định ở trẻ tự kỷ có biểu hiện như sau:
- Vị giác nhạy cảm hơn bình thường nên trẻ thường chỉ ăn một số loại thức ăn nhất định
- Trẻ rất lười nhai, thường chỉ yêu thích các món ăn mềm, không phải nhai
- Trẻ có thể nhạy cảm quá mức với âm thanh hoặc ánh sáng. Trước ánh sáng chói chang hoặc âm thanh quá lớn, trẻ có thể trở nên lo lắng, sợ hãi, kích động. Tuy nhiên, cũng có những trẻ hoàn toàn không có phản ứng khi nghe thấy âm thanh rất lớn.
- Một số trẻ có trí nhớ rất tốt nhưng thường máy móc. Trẻ bắt chước nhanh và rất giống với đồ vật, con vật.
- Trẻ tự kỷ không biết cách sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ nhu cầu và tình cảm. Do đó, nhiều trẻ có cảm xúc không ổn định. Trẻ hay la hét, giận dữ, cáu kỉnh, đôi khi lo lắng và sợ hãi quá mức.
- Trẻ rất hiếm khi cưới với mọi người nhưng đôi khi cười phá lên với đồ vật hoặc cười một tràng dài dù không có yếu tố nào tác động.
5. Các biểu hiện đi kèm
Ngoài những biểu hiện trên, tự kỷ còn gây ra khá nhiều triệu chứng khác. Tùy theo mức độ mà trẻ có thể gặp phải hoặc không.
- Rối loạn trương lực cơ
- Có các hành vi kỳ dị, lặp đi lặp lại với biểu hiện khá giống với hội chứng Rett, Tourett, TIC,…
- Rối loạn cơ vòng dẫn đến việc đái dầm, ị đùn,…
- Một số trẻ bị rối loạn nuốt, thường xuyên ói sau khi ăn,…
- Động kinh (thường xảy ra trong vòng 12 tháng đầu)
- Khuôn mặt ít biểu càm, mắt nhìn thiếu linh hoạt
- Không chơi các trò chơi giả vờ giống như trẻ đồng trang lứa
- Trẻ có ngưỡng chịu đau tốt hơn bình thường. Trẻ không có phản ứng khóc lóc hay mè nheo khi té ngã. Một số trẻ có phản ứng bất thường với nỗi đau (cảm xúc kỳ lạ, bất thường khi bị đau)
- Đa phần trẻ tự kỷ đều yêu thích âm nhạc. Trẻ rất thuộc lời và có thể hát đi hát lại những đoạn mà trẻ thích.
- Thiếu tập trung nhưng lại bị lôi cuốn mạnh mẽ bởi một thứ gì đó (chẳng hạn như chong chóng hoặc đồ chơi lắp ráp, có nhiều chi tiết,…)
- Một số trẻ tự kỷ có trí nhớ vượt trội hơn hẳn những người khác nên thường bị nhầm lẫn là thiên tài. Trong trường hợp này, trẻ có thể biết đọc sớm, kể lại những câu chuyện mà trẻ nghe được, am hiểu về một lĩnh vực nào đó,… Tuy nhiên, trẻ vẫn phải đối mặt với những khiếm khuyết về ngôn ngữ, hành vi khác thường và thiếu tương tác xã hội.
- Trẻ tự kỷ thường có mắc phải các bệnh thể chất như nhiễm trùng đường hô hấp trên, nhu động ruột kém và thường xuyên bị táo bón. Trẻ có thể không bị sốt và không có các biểu hiện khó chịu khi bị nhiễm trùng.
Triệu chứng tự kỷ ở trẻ em vô cùng phức tạp và đa dạng. Mỗi trẻ sẽ có các triệu chứng khác nhau và biểu hiện cũng sẽ thay đổi tùy theo độ tuổi. Tuy nhiên, dấu hiệu tự kỷ xuất hiện từ rất sớm nên gia đình hoàn toàn có thể phát hiện và can thiệp kịp thời.
Ba mẹ đăng ký sàng lọc, đánh giá cho bé cùng TS. Đinh Thanh Tuyến – Chủ tịch Hội đồng Viện Nghiên cứu Tâm lý và Phát triển Con người tại đây.
Phân loại tự kỷ ở trẻ em
Cho đến nay, việc phân loại tự kỷ ở trẻ em vẫn còn rất nhiều tranh cãi. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do biểu hiện bệnh quá đa dạng. Ngoài ra, hiểu biết hạn chế về cơ chế bệnh sinh, căn nguyên,… cũng dẫn đến nhiều tranh cãi trong việc phân loại.
Hiện nay, tự kỷ ở trẻ được chia thành 6 loại bao gồm:
- Tự kỷ điển hình (hay tự kỷ bẩm sinh/ tự kỷ Kanner)
- Tự kỷ chức năng cao (hay hội chứng Asperger)
- Rối loạn phân rã thời thơ ấu (hay hội chứng Heller)
- Hội chứng Rett
- Tự kỷ không điển hình
- Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu
Trong đó, đa phần tự kỷ ở trẻ đều là tự kỷ điển hình (được xác định khi triệu chứng khởi phát trước 3 năm tuổi với khiếm khuyết ở cả 3 khía cạnh là tương tác xã hội, ngôn ngữ/ giao tiếp và hành vi).
Trẻ bị tự kỷ gặp phải những khó khăn gì?
Tự kỷ là chứng bệnh do rối loạn phát triển thần kinh nên sẽ kéo dài suốt đời. Tiên lượng bệnh đa dạng tùy theo triệu chứng và mức độ của từng trẻ. Tuy nhiên, đa phần đều không có tiên lượng quá khả quan. Để giúp trẻ tự kỷ cải thiện kỹ năng và bình thường hóa cuộc sống cần rất nhiều nỗ lực từ gia đình.
Trẻ mắc chứng tự kỷ chức năng cao hoặc những trẻ có chỉ số IQ cao hơn 70 sẽ có tiên lượng tốt hơn. Những trẻ này có trí nhớ máy móc nếu được giáo dục đúng cách có thể tìm kiếm công việc, thậm chí đạt được thành tựu trong một số lĩnh vực. Tuy nhiên, việc can thiệp trị liệu là cần thiết bởi trẻ phải đối mặt với những khó khăn về tâm lý và tương tác xã hội.
Can thiệp đối với trẻ tự kỷ vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là với những nước có nền kinh tế kém và y tế chưa được chú trọng. Ở nước ta, khoảng 2/3 trẻ tự kỷ sống phụ thuộc một phần hoặc hoàn toàn vào gia đình. Chỉ có một số ít trẻ có thể tự lập trong sinh hoạt và tìm kiếm được công việc phù hợp.
Chẩn đoán bệnh tự kỷ ở trẻ
Tự kỷ ở trẻ có thể được phát hiện sớm nếu gia đình chú ý những bất thường của con trẻ. Để chẩn đoán bệnh, bác sĩ sẽ thực hiện các kỹ thuật như:
- Khám lâm sàng (khám tâm thần, thần kinh và sàng lọc sức khỏe toàn thân)
- Thực hiện các bài test tự kỷ
- Xét nghiệm cận lâm sàng (CT, MRI, PET, xét nghiệm nhiễm sắc thể, điện não đồ, đo thính lực,…)
Tùy theo từng cơ sở mà bác sĩ có thể dùng tiêu chuẩn chẩn đoán trong DSM-5 hoặc ICD-10. Một số trắc nghiệm tâm lý chuyên sâu có thể được thực hiện để xác định mức độ nghiêm trọng của bệnh.
Các phương pháp điều trị can thiệp tự kỷ ở trẻ em
Điều trị tự kỷ còn rất nhiều hạn chế nhưng can thiệp càng sớm thì tiên lượng càng tốt. Do trẻ bị khiếm khuyết nhiều kỹ năng nên cần có sự phối hợp của bác sĩ tâm thần, thần kinh, điều dưỡng, giáo viên đặc biệt, chuyên viên tâm lý, chuyên viên âm ngữ,… Phương pháp can thiệp sẽ được quyết định bởi tình trạng bệnh của từng trẻ.
1. Các phương pháp y – sinh học
Hiện nay, y học đã tìm ra một số phương pháp giúp cải thiện các triệu chứng thể chất, tâm thần ở trẻ tự kỷ. Dù còn nhiều hạn chế nhưng các phương pháp y – sinh hoạt giúp ích rất nhiều trong việc kiểm soát bệnh. Dưới đây là một số phương pháp được cân nhắc cho trẻ tự kỷ:
- Liệu pháp hóa dược: Không có thuốc điều trị tự kỷ, một số loại thuốc được dùng để giảm rối loạn cảm xúc, lo âu, mất ngủ, tăng động và các triệu chứng thể chất của trẻ tự kỷ. Các loại thuốc thông dụng bao gồm thuốc giảm tăng động, thuốc chống trầm cảm, thuốc chống co giật, thuốc tăng cường tuần hoàn não,…
- Vật lý trị liệu: Trẻ tự kỷ không thể vận động như bình thường. Vật lý trị liệu giúp trẻ cải thiện các hoạt động của chân, tay, vận động tri giác, thị giác,… để có thể thay đổi hành vi rập khuôn và hình thành các hành vi tích cực hơn. Mục tiêu xa hơn của phương pháp này là giúp trẻ tự lập trong sinh hoạt hằng ngày.
- Phương pháp phản hồi thần kinh (NFB): NFB được đánh giá là phương pháp triển vọng hiện nay. Phương pháp này “huấn luyện” thần kinh não bộ bằng cách cho bệnh nhân cảm nhận sóng não của chính mình. NFB đã được chứng minh mang lại hiệu quả với bệnh tự kỷ và rối loạn tăng động giảm chú ý.
- Trị liệu tế bào gốc: Phương pháp này được áp dụng trong điều trị nhiều bệnh lý khác nhau, bao gồm cả tự kỷ. Tế bào gốc được sử dụng để sửa chữa những tổn thương ở hệ thần kinh não bộ, từ đó giảm các khiếm khuyết thường thấy ở trẻ tự kỷ. Phương pháp này đặc biệt phổ biến ở Trung Quốc và Ấn Độ với hiệu quả lâm sàng lên đến 70%.
- Giải độc hệ thống: Phương pháp này ít được áp dụng và thường chỉ cân nhắc cho trẻ tự kỷ có liên quan đến nhiễm độc thủy ngân. Hiện nay, giải độc hệ thống chỉ được thực hiện ở Mỹ và một số quốc gia có nền y học tiên tiến.
- Liệu pháp oxy cao áp (HBO): HBO được ứng dụng trong điều trị nhiều bệnh lý khác nhau. Phương pháp này sử dụng oxy thuần khiết có áp lực lớn nhằm tăng lượng oxy trong máu lên 22-30 lần so với bình thường. Lượng oxy tăng lên giúp cải thiện tình trạng thiểu năng tuần hoàn não, từ đó cân bằng chất dẫn truyền thần kinh và giảm nhẹ triệu chứng của bệnh tự kỷ. HBO có thể làm giảm các triệu chứng tăng động, tính tình hung hăng, kích động,…
Ở nước ta, hóa dược trị liệu, vật lý trị liệu và liệu pháp oxy cao áp là những phương pháp y – sinh học được áp dụng phổ biến nhất.
2. Các phương pháp tâm lý – giáo dục
Bản thân trẻ tự kỷ không có khả năng tiếp thu như các trẻ khỏe mạnh nên cần được giáo dục đặc biệt. Ngoài ra, trẻ cũng cần được chăm sóc tâm lý để học cách bộc lộ, kiểm soát và thể hiện cảm xúc phù hợp. Do khiếm khuyết về tương tác xã hội nên trẻ cũng cần được dạy các kỹ năng cần thiết để hòa nhập với những người xung quanh.
Các phương pháp tâm lý – giáo dục cho trẻ tự kỷ:
- Trị liệu tâm vận động: Phương pháp này được phát triển dựa trên quan điểm cơ thể vận động nhanh nhẹn sẽ giúp cho hệ thần kinh trở nên nhanh nhạy hơn, từ đó thúc đẩy sự phát triển tâm lý. Trị liệu tâm vận động thường được thực hiện thông qua các trò chơi. Mục tiêu của phương pháp này là giúp trẻ tăng khả năng thích nghi với mọi thứ xung quanh.
- Trị liệu phân tâm: Trị liệu phân tâm thường được thực hiện bằng hình thức trò chuyện. Phương pháp này giúp giải tỏa cảm xúc dồn nén, giảm căng thẳng và phần nào giúp chuyên gia đánh giá được nhân cách của từng trẻ. Trị liệu phân tâm còn giúp gia đình có thái độ tích cực hơn khi chăm sóc trẻ tự kỷ.
- Trị liệu ngôn ngữ: Hầu hết trẻ bị tự kỷ đều phải can thiệp trị liệu ngôn ngữ. Trẻ sẽ được hướng dẫn cách phát âm, gia tăng vốn từ vựng, hiểu từ ngữ và biết cách sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Trị liệu ngôn ngữ sẽ được thực hiện bởi chuyên gia âm ngữ nhưng gia đình vẫn có thể hỗ trợ tại nhà để giúp trẻ tiến bộ nhanh hơn.
- Hoạt động trị liệu: Hoạt động trị liệu là một phần quan trọng trong kế hoạch điều trị tự kỷ. Phương pháp này giúp cải thiện thể trạng, nâng cao khả năng tập trung, giảm hành vi tiêu cực và giúp trẻ tăng tương tác với những người xung quanh.
- Trị liệu cảm giác: Trị liệu cảm giác được áp dụng để cải thiện tình trạng rối loạn cảm giác ở trẻ tự kỷ. Phương pháp này giúp trẻ có phản ứng bình thường với cơn đau và khi nghe thấy âm thanh hoặc nhìn thấy ánh sáng với cường độ cao.
- Các phương pháp giáo dục đặc biệt: Như đã đề cập, trẻ tự kỷ có khả năng tiếp thu kém hơn rất nhiều so với trẻ khỏe mạnh. Một số trẻ có chỉ số IQ cao, trí nhớ tốt nhưng vẫn không thể tiếp thu nếu giáo dục theo cách bình thường. Các phương pháp giáo dục đặc biệt giúp trẻ nâng cao nhận thức, trí tuệ và tăng khả năng hòa nhập với cộng đồng.
- Các phương pháp khác: Ngoài những phương pháp trên, trẻ tự kỷ còn được điều trị bằng nhiều phương pháp khác như thủy trị liệu, trị liệu bằng nghệ thuật, trò chơi trị liệu, phân tích ứng dụng hành vi (ABA), phương pháp Floortime,…
Các phương pháp tâm lý – giáo dục được khuyến khích can thiệp càng sớm càng tốt. Tốt nhất nên can thiệp ngay sau khi trẻ được chẩn đoán bị tự kỷ và nên thực hiện suốt đời. Các phương pháp này mang lại hiệu quả tốt nhất khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và chuyên gia, bác sĩ. Bên cạnh đó, xã hội cũng cần tạo điều kiện để trẻ tự kỷ được học tập và phát triển như bình thường.
3. Các biện pháp tại nhà
Ngoài các phương pháp chuyên sâu, gia đình cũng cần thực hiện một số biện pháp để cải thiện bệnh cho trẻ tự kỷ. Các biện pháp hỗ trợ giúp ích rất nhiều trong việc thay đổi các hành vi tiêu cực, giúp trẻ giảm tình trạng kích động, cáu kỉnh và phát triển khả năng ngôn ngữ, vận động,…
Các biện pháp hỗ trợ điều trị tự kỷ ngay tại nhà:
- Dành ít nhất 3 giờ/ ngày để vui chơi, trò chuyện cùng với trẻ.
- Dạy trẻ cách dùng ngón trỏ để chỉ, sử dụng ánh mắt khi giao tiếp,…
- Dạy trẻ các cử chỉ giao tiếp như vẫy tay khi nói bye bye, khoanh tay khi chào người lớn, bắt tay, vỗ tay,…
- Gọi tên trẻ thường xuyên để tạo cho trẻ sự chú ý và giúp trẻ nhận ra việc gọi tên người khác là điều cần thiết.
- Khi giao tiếp với trẻ tự kỷ, nên nói rõ ràng, nói chậm rãi và sử dụng các từ ngữ đơn giản.
- Giao việc để trẻ thực hiện, khen ngợi khi trẻ làm tốt và khuyến khích, động viên khi trẻ làm chưa tốt.
- Lờ đi khi trẻ ăn vạ, la hét, quấy khóc.
- Cho trẻ tiếp xúc với những trẻ khác, không nên nhốt trẻ trong nhà và hạn chế tối đa việc tiếp xúc với các thiết bị điện tử.
Phòng ngừa tự kỷ ở trẻ em
Tự kỷ là bệnh tiến triển suốt đời và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống. Trước thực trạng tỷ lệ mắc bệnh ngày càng gia tăng, trang bị kiến thức phòng ngừa tự kỷ là vô cùng cần thiết.
Hiện tại, không có phương pháp phòng ngừa tự kỷ đặc hiệu. Cách duy nhất để hạn chế nguy cơ mắc bệnh là phòng tránh những yếu tố nguy cơ như biến chứng chu sinh, thiếu vitamin, khoáng chất trong thai kỳ, nhiễm độc thủy ngân,…
Các biện pháp phòng ngừa bệnh tự kỷ ở trẻ em:
- Sàng lọc sức khỏe trước khi quyết định mang thai.
- Bổ sung đủ acid folic trong thai kỳ, cung cấp đầy đủ vitamin và khoáng chất thông qua chế độ ăn lành mạnh.
- Không dùng bia rượu, thuốc lá, hạn chế tối đa việc dùng thuốc trong thời gian mang thai.
- Tránh xa kim loại nặng và hóa chất độc hại.
- Duy trì thai kỳ khỏe mạnh để phòng ngừa tai biến sản khoa.
- Phát hiện sớm những bất thường của trẻ để kịp thời chẩn đoán và điều trị.
Trẻ tự kỷ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống do khiếm khuyết về ngôn ngữ, hành vi và thiếu tương tác xã hội. Bản thân gia đình cũng bị ảnh hưởng không nhỏ khi chăm sóc và giáo dục trẻ. Mặc dù còn nhiều hạn chế, thách thức khi điều trị nhưng can thiệp sớm sẽ giúp ích rất nhiều trong việc cải thiện chức năng và nâng cao chất lượng cuộc sống. Y học đang có những bước phát triển vượt bậc nên điều trị tự kỷ chắc hẳn sẽ có nhiều triển vọng hơn trong tương lai.
Tham khảo thêm:
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!