Phương pháp Floortime (DIR) trong can thiệp và hỗ trợ trẻ tự kỷ
Phương pháp Floortime (DIR) hay phương pháp ngồi sàn được ứng dụng nhiều trong can thiệp và giáo dục trẻ tự kỷ nhằm xây dựng các kỹ năng cần thiết trong quá trình phát triển nhận thức, cảm xúc và tương tác xã hội. Phương pháp này được phát triển dựa trên chính sở thích, nhu cầu chơi của con để cải thiện các thiếu hụt theo từng giai đoạn một cách hợp lý.
Phương pháp Floortime (DIR) là gì?
Giáo dục trẻ tự kỷ thực sự là một hành trình dài với rất nhiều khó khăn và chông gai để tìm đến đích. Theo các chuyên gia, trẻ tự kỷ cần được hưởng một nền giáo dục đặc biệt, kết hợp nhiều phương pháp thì mới có thể bù đắp phần nào các thiếu hụt về mặt nhận thức, cảm xúc, ngôn ngữ hay hành vi rập khuôn kỳ lạ của con.
Phương pháp Floortime (DIR) hiện là một trong những phương pháp được ứng dụng nhiều trong quá trình can thiệp cho trị liệu. Phương pháp này được phát triển với nền tảng từ Mô hình phát triển dựa trên khác biệt cá nhân và dựa trên các mối quan hệ (developmental individual difference relationship-based model – DIR).
Đặc điểm của DIR chính là thông qua những sở thích cá nhân (natural interests) cùng nhu cầu chơi theo ý muốn, bản năng (play preference) của con để hội nhập, kết nối, phát triển các kỹ năng khác. Do đó phương pháp Floortime (DIR) còn được gọi là phương pháp ngồi sàn vì cần phải ngồi trực tiếp để chơi và tương tác với con trong biện pháp trị liệu này.
Phương pháp Floortime được phát triển bởi tiến sĩ – nhà tâm thần học Stanley Greenspan từ những năm 1980, sau đó cũng được Serena Wieder tiếp tục đồng hành nghiên cứu. DIR sẽ thông qua điểm mạnh/ điểm yếu của trẻ tự kỷ (strengths and challenges), tôn trọng những khiếm khuyết và nhu cầu của con, hòa nhập với con ở thời điểm hiện tại để nâng cao dần các thế mạnh khác.
Một đặc điểm cũng cần chú trong phương pháp can thiệp cho trẻ tự kỷ chính là đòi hỏi sự phối hợp ăn ý của tập thể, ở đây bao gồm các thành viên như giáo viên, chuyên gia ngữ âm (speech language pathologists), chuyên gia tâm lý (psychology expert), bác sĩ chuyên ngành, nhà trị liệu vận động vật lý và cơ năng (physical and occupational therapists) và cả cha mẹ.
Quá trình chơi và tương tác với trẻ tự kỷ sẽ không do người lớn đảm nhiệm, hướng dẫn mà do chính con dẫn dắt ( chơi theo nhu cầu và năng lực của con). Phương pháp Floortime (DIR) luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng của cha mẹ cũng như các thành viên khác sống cùng bởi việc cùng chơi đùa, tương tác với con hằng ngày rất cần có sự hỗ trợ của các thành viên này.
Phương pháp Floortime được coi là phương pháp trị liệu cho trẻ tự kỷ có hệ thống bởi trẻ được phát triển theo từng giai đoạn, từng bậc thang để cải thiện từng kỹ năng một, bắt đầu từ bậc thấp nhất. Dần dần trẻ không chỉ học được cách chơi, sự kết nối với xung quanh, mà còn tăng cường được cả ngôn ngữ và khả năng giao tiếp.
Các yếu tố phát triển phương pháp Floortime
Cần hiểu rằng, phương pháp Floortime được phát triển trên nền tảng mô hình DIR, do đó các yếu tố hoàn thiện và phát triển cho trẻ có mối liên quan mật thiết đến mô hình này. Tất nhiên tiêu chuẩn và mục đích chung của cả hai vẫn là hiểu và thúc đẩy sự phát triển tốt nhất cho những đứa trẻ đặc biệt.
Các yếu tố tác động và hoàn chỉnh phương pháp Floortime bao gồm
- Giai đoạn phát triển: “D” trong DIR là viết tắt cho Developmental – phát triển. Điều này có ý nghĩa là các biện pháp giáo dục sẽ được soạn thảo, lên kế hoạch dựa vào năng lực, tình trạng, mức độ nhận thức của trẻ để xây dựng, phát triển dần theo từng giai đoạn (developmental stage of the child)
- Sự khác biệt của cá nhân: “I” trong DIR là viết tắt của Individual – riêng biệt, cá nhân. phương pháp Floortime đòi hỏi cần phải tôn trọng, chấp nhận những thiếu hụt, khiếm khuyết hay các đặc điểm khác biệt của con và không được phủ nhận từ bỏ nó. Chẳng hạn người chơi cùng con cần phải hiểu rõ trẻ có mức độ nhạy cảm như thế nào với môi trường, ánh sáng, âm thanh, từ đó mới soạn thảo được được các kế hoạch chơi phù hợp với con .
- Các mối quan hệ: “R” trong DIR là viết tắt của Relationship- mối quan hệ. Điều này có nghĩa là DIR hay phương pháp Floortime đều đề cao các vai trò của các mối quan hệ kết nối trong quá trình can thiệp và giáo dục cho trẻ, ở đây chính là đội ngũ chuyên gia, bác sĩ, giáo viên, phụ huynh hoặc cả bạn học nhằm cải thiện được hoàn toàn các kỹ năng tương tác.
- Dựa trên mặt cảm xúc: các phương pháp can thiệp giáo dục/trị liệu riêng cho từng trẻ đặc biệt cần được thẩm định khía cạnh cảm xúc (an assessment of the child’s emotional development) nhằm xoa dịu, cân bằng về mặt cảm giác (sensory motor processing and regulation) hiệu quả nhất. Các mặt cảm xúc này được phát triển cho trẻ dựa trên 6 giai đoạn – ứng với 6 cột mốc mục tiêu quan trọng.
Các yếu tố này hoàn toàn phù hợp với năng lực, nhu cầu, đặc điểm riêng của trẻ tự kỷ. Phương pháp Floortime hay mô hình DIR đều cho thấy tầm quan trọng của các mối quan hệ hay các cảm xúc cá nhân với sự phát triển tự nhiên. Hiểu sâu sắc về chữ “D” và chữ “I” chính là nền tảng quan trọng để đưa chữ R vào quá trình phát triển và hoàn thiện hơn các kỹ năng thiếu hụt cho trẻ tự kỷ.
Mục tiêu của phương pháp Floortime
Can thiệp điều trị và giáo dục cho trẻ tự kỷ cần kết hợp nhiều phương pháp bởi mỗi phương pháp đều sẽ có mục tiêu khác nhau. Nhìn chung đích hướng tới với trẻ tự kỷ vẫn nhằm tăng cường các vấn đề mà trẻ khiếm khuyết để cải thiện về đời sống, tinh thần, giúp ích cho trẻ trong tương lai hoặc ít nhất có thể hòa hợp với xã hội và có các trải nghiệm như những đứa trẻ bình thường.
Phương pháp Floortime được xây dựng và phát triển với các mục tiêu chính để trẻ có thể hòa nhập và đạt được các cột mốc sau
- Tự điều chỉnh và biết quan tâm đến thế giới (self-regulation and shared attention): trẻ tự kỷ có xu hướng quá nhạy cảm ( dễ bị kích thích về mặt ngửi, nghe hoặc sờ) nhưng cũng kém nhạy cảm hơn với một số vấn đề ( cần có thêm các thông tin về mặt cảm giác để được kích thích)… Người chơi cùng cần tạo cơ hội để dạn dĩ, chủ động làm quen với các vấn đề xung quanh, kiểm soát và điều hòa dần các mức xử lý cảm giác của bản thân.
- Sự mật thiết hay nhập cuộc (engaging and relating): mục tiêu của phương pháp Floortime trong giai đoạn này chính là giúp trẻ đạt được khả năng tìm kiếm sự quen thuộc ở những khuôn mặt hay đồ vật xung quanh, đây chính là nền tảng quan trọng để kiến tạo các mối quan hệ và giúp trẻ thành thạo các kỹ năng khác như ngôn ngữ, nhận thức hay vận động. Người hướng dẫn cần tạo sự liên kết thân mật với con bằng cách tạo cho con tiếng người, kết nối con với bạn bè xung quanh.
- Giao tiếp hai chiều có chủ đích(two-way intentional communication): ở giai đoạn này, trẻ cần phải biết dùng ngôn ngữ, ánh mắt hay hành động, cử chỉ qua lại với người đối diện, được thực hiện xung quanh vòng tròn hoặc trên sàn nhà (circle of communication). Phương pháp Floortime được thực hiện bằng những cách như trẻ cười và được đáp lại; trẻ nhìn vào một đồ vật và được đưa cho đồ vật đó, điều này dần sẽ tạo ra các giao tiếp ở hai chiều (mở và đóng các vòng tròn giao tiếp)
- Sử dụng giao tiếp phức tạp (purposeful, complex, problem-solving communication): mục tiêu của phương pháp Floortime trong giai đoạn này chính là hướng dẫn trẻ có thể tự thể hiện các nhu cầu cá nhân thông qua việc kết nối các cử chỉ hay ngôn ngữ thay vì chỉ biết la hét, ăn vạ như trước đây. Thời điểm này mức độ giao tiếp và tính phức tạp sẽ được tăng dần.
- Ý tưởng sáng tạo, nhận diện và sử dụng các dấu hiệu(creating symbols): người hướng dẫn sẽ dạy trẻ hiểu về các biểu tượng có thể đại diện thay thế cho sự vật và mỗi dấu hiệu này sẽ là một ý tưởng sáng tạo cá nhân. phương pháp Floortime phát triển các ý tưởng sáng tạo thông qua chơi giả vờ (pretend play). Khả năng sáng tạo, tưởng tượng của trẻ có phong phú hay không dựa vào mức độ chơi giả vờ của con.
- Xây dựng các cầu nối giữa các biểu tượng có logic (building bridges between symbols): phương pháp Floortime ở giai đoạn này có thể đạt được kết quả khi trẻ biết chủ động dùng từ ngữ, biểu tượng để biểu lộ cảm xúc, mong muốn thay vì chỉ sử dụng cử chỉ, hành động như trước đây. Chẳng hạn con có thể nói rằng cảm thấy vui khi được chơi cùng bố. Con cũng có sự nhận thức rõ trong việc kết nối các chuỗi logic, nắm bắt được về không gian, thời gian theo sự thấu hiểu cá nhân. Đồng thời mức độ biểu đạt này sẽ cao và tốt hơn các giai đoạn trước đó và người hướng dẫn sẽ khuyến khích con dùng cách này để biểu đạt nhiều hơn.
Trẻ từng bước đạt được các cột mốc trên, nắm rõ từng giai đoạn trước khi chuyển sang các bậc thang tiếp theo. Trẻ dần phát triển được về mặt cảm xúc, hình thành được các kỹ năng, nhận thức, ngôn ngữ, mở rộng vốn ngôn ngữ cần thiết. Đây chính là kết quả mà các chuyên gia khi sử dụng phương pháp Floortime mong muốn.
Đánh giá ưu/ nhược điểm của phương pháp Floortime
Cần hiểu rằng phương pháp Floortime không phải là một liệu pháp can thiệp độc lập cho trẻ tự kỷ mà thường kết hợp đồng thời với một số phương pháp khác, phổ biến nhất là phương pháp ABA. Mô hình can thiệp DIR cũng được đánh giá có nhiều ưu/ nhược điểm khác nhau, bao gồm
Ưu điểm
Thực tế phương pháp Floortime chính là một trong những liệu pháp ít bị phản đối nhất, đặc biệt từ phụ huynh so với các biện pháp can thiệp cho trẻ tự kỷ hiện nay. Nguyên nhân được cho là vì các giáo án can thiệp của Floortime mang tính chất cá nhân, được soạn thảo dựa trên chính những thiếu hụt của con, khá dễ hiểu, vì thế thường sẽ phù hợp với tình trạng của từng trẻ thay vì các chương trình can thiệp chung.
Thời gian yêu cầu để chơi cùng trẻ theo phương pháp nay là 3-5 tiếng/ ngày nhưng chỉ yêu cầu tối đa một lần chơi chỉ từ 30 phút/ lần, do đó phụ huynh hoàn toàn có thể sắp xếp được thời gian phù hợp. Phương pháp này được cho là tập trung vào “toàn bộ đứa trẻ” nhằm phát triển, cải thiện được tối đa các thiếu hụt của cá nhân con.
Phương pháp Floortime tập trung vào việc ” chơi” theo nhu cầu của con, chắc chắn điều này có thể khiến trẻ có thể cảm thấy hứng thú hơn là làm theo một chỉ dẫn ràng buộc từ người khác như bình thường. Sự tương tác và các kỹ năng hỗ trợ cũng được tăng dần tùy theo năng lực nên hầu như trẻ có thể theo kịp.
Mặc dù nói rằng mô hình DIR sẽ được thực hành thông qua sự dẫn dắt của trẻ nhưng rõ ràng người hỗ trợ, chẳng hạn như cha mẹ vẫn có thể tham gia vào quá trình đóng góp ý tưởng trong các trò chơi. Điều này được thực hiện khi đã tạo ra mối liên kết gắn bó tương tác giữa cả hai bên.
Mặt khác Trung tâm Nghiên Cứu Tự Kỷ (the National Autism Center’s National Standard Project) đã nhìn nhận phương pháp Floortimet có triển vọng trong can thiệp phát triển cho trẻ đặc biệt vào năm 2009. Điều này càng giúp khẳng định thêm chắc chắn về những hiệu quả, những hi vọng tích cực cho trẻ tự kỷ.
Phương pháp Floortime được đánh giá mang đến kết quả tích cực nhất khi trẻ tự kỷ còn nhỏ để bổ sung các nhu cầu khiếm khuyết ngay từ giai đoạn sớm, trẻ dễ tiếp thu và ghi nhớ hơn. Thống kê cho thấy các phụ huynh có con tự kỷ khi áp dụng phương pháp này cũng để lại nhiều phản hồi tích cực.
Hạn chế
Mặc dù phương pháp Floortime ít bị “ném đá” nhất trong các phương pháp trị liệu can thiệp cho trẻ tự kỷ nhưng lại chưa hoàn toàn được khoa học chứng nhận hoàn toàn. Trước đây nhóm chủ xướng nghiên cứu về phương pháp này chỉ báo cáo về những thành quả tốt đẹp nên được đánh giá là thiếu khách quan, không đáp ứng được nguyên tắc “xung đột quyền lợi” (conflict of interests) nên một số chuyên gia vẫn đánh giá là chưa thể tin được.
Như đã nói, phương pháp này không hiệu quả nếu thực hiện đơn độc mà chắc chắn cần phối hợp với trị liệu ngôn ngữ, can thiệp hành vi, trị liệu vật lý, tăng cường các kỹ năng xã hội cùng một số phương pháp khác. Tức là phương pháp này cũng đòi hỏi những hiểu biết về các liệu pháp can thiệp trên.
Phương pháp Floortime đòi hỏi rất nhiều sự kiên nhẫn và cả thời gian từ người hướng dẫn. Phụ huynh có thể chỉ tốn 2-5 tiếng/ ngày nhưng để có hiệu quả thì phải kéo dài đến một vài năm, không phải ngày một ngày 2 là có kết quả.
Cũng cần hiểu rằng, phương pháp Floortime không tập trung vào việc phát triển ngôn ngữ, nhận thức hay các kỹ năng khác từ đầu mà sẽ thông qua tập trung phát triển về cảm xúc để nâng cao các kỹ năng khác. Điều này có thể có cấu trúc khác biệt so với một số liệu pháp khác nên mới cần có sự kết hợp song song.
Thực tế thì mặc dù được nhiều phụ huynh phản hồi tốt nhưng kết quả của phương pháp Floortime lại khác nhau trên từng đối tượng, điều này được cho là phụ thuộc vào sự nhạy cảm của cha mẹ cũng như khả năng điều chỉnh bản thân của trẻ. Điều này dẫn tới sẽ có những giai đoạn trẻ tương tác và cải thiện rất tốt nhưng có những giai đoạn hoàn toàn chững lại.
Thậm chí nhiều phụ huynh đã nói rằng, việc con bị chững lại đã khiến họ bối rối và không biết làm thế nào. Bởi rõ ràng bản chất của phương pháp Floortime chính là để trẻ tự dẫn dắt, vô tình điều này khiến trẻ gia tăng các hành vi chỉ tập trung vào bản thân. Đồng thời việc dùng ngôn ngữ để tăng cường nhận thức cũng khiến trẻ kém trong việc giao tiếp không lời.
Để cải thiện điều này các chuyên gia sẽ khuyến khích tạo ra các kiểu “hội thoại giả tạo” nhằm giúp trẻ biết tương tác trước sau. Tuy nhiên nếu trẻ tự kỷ quá cứng nhắc, kém trong linh hoạt có thể không đáp ứng được các yếu tố để giải quyết các hạn chế từ phương pháp Floortime.
Chi phí cho các khóa học theo mô hình DIR ở trẻ tự kỷ cũng được đánh giá là khá cao bởi nó cũng chưa quá phổ biến và cần được thực hiện trong một thời gian dài. Chẳng hạn, chi phí trung bình 1 giờ đồng hồ cho những chuyên viên trị liệu Floortime có thể giao động từ $90 đến $200, khá cao.
Nói chung, vẫn còn rất nhiều vấn đề tồn tại xoay quanh phương pháp Floortime cho trẻ tự kỷ, tuy nhiên đây vẫn là một phương án có triển vọng tích cực mà phụ huynh có thể tham khảo. Dù vậy, gia đình khi có trẻ tự kỷ hay trẻ đặc biệt vẫn nên sớm đưa con đến với các trung tâm giáo dục chuyên biệt, gặp gỡ bác sĩ chuyên môn và các chuyên gia để được thăm khám và có hướng can thiệp phù hợp nhất.
Có thể bạn quan tâm:
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!